Về điều kiện hưởng lương hưu, quy định hiện hành tại Điều 169, Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày 18/11/2020 của Chính phủ, theo đó kể từ ngày 1/1/2021:
– Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ có đủ 20 năm đóng BHXH trong điều kiện lao động bình thường là đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng cho đến đủ 60 tuổi vào năm 2035.
– Lao động nữ có thể nghỉ hưu thấp hơn không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường tại thời điểm nghỉ hưu nếu có đủ 20 năm đóng BHXH và thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
Có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc độc hại nguy hiểm (NNĐHNH) hoặc đặc biệt NNĐHNH thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành;
Có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021);
Có tổng thời gian làm nghề, công việc NNĐHNH hoặc đặc biệt NNĐHΝΗ và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021) từ đủ 15 năm trở lên;
Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
– Lao động nữ có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường tại thời điểm nghỉ hưu, nếu có đủ một trong các điều kiện sau:
Trong 20 năm đóng BHXH có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò;
Có đủ 20 năm đóng BHXH và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
– Lao động nữ có 20 năm đóng BHXH mà bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp hoặc bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt NNĐHNH thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành thì không quy định giới hạn về tuổi.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư số 19/2021/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Danh mục vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường được áp dụng từ ngày 1/1/2021 thì thời gian người lao động làm việc trước ngày 1/1/2021 được căn cứ theo nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên để làm cơ sở xác định các trường hợp có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường.
Như vậy, với thông tin bà Dương có thời gian công tác tại vùng đặc biệt khó khăn trên 15 năm (không có thời gian công tác tại nơi có phụ cấp khu vực 0,7 trở lên) thì BHXH Việt Nam chưa đủ căn cứ để trả lời về việc bà có đủ điều kiện để nghỉ hưu trước tuổi vào năm 2024 hay không.
Để biết chính xác điều kiện nghỉ hưu trước tuổi, bà Dương có thể liên hệ đến cơ quan BHXH địa phương để được giải đáp cụ thể trên cơ sở quá trình tham gia BHXH của bà do cơ quan BHXH đang quản lý.
Nguồn: Chinhphu.vn